Móng hay móng nền, móng nhà là hạng mục xây dựng nằm dưới cùng của công trình xây dựng như tòa nhà, cầu, đập nước. Chức năng chính của móng là chịu tải trọng tĩnh, động của toàn bộ công trình truyền xuống và phân tán tải trọng này xuống nền. Quá trình xây nhà bao gồm cả việc lựa chọn, thiết kế và thi công móng cho phù hợp nhằm đảm bảo công tình không bị lún, nứt hay đổ vỡ.
Việc phân loại móng công trình giúp chúng ta nhận biết và phân biệt các loại móng khác nhau, từ đó đánh giá hiệu quả phù hợp với từng loại công trình. Căn cứ vào tính chất tầng đất và tải trọng, chiều cao công trình mà kỹ sư sẽ quyết định sử dụng loại móng nào cho phù hợp và đảm bảo an toàn. Chẳng hạn, với những công trình nhà ở quy mô nhỏ, thấp tầng như nhà cấp 4, biệt thự hay nhà phố thì phần nền móng không cần quá phức tạp, trừ khi nền đất quá yếu. Tuy nhiên, nếu xây dựng những công trình cao tầng như cao ốc, nhà chung cư thì phần nền móng sẽ phức tạp hơn rất nhiều từ khâu thiết kế cho tới thi công.
Phân loại móng dựa theo độ nông, sâu
Thông thường, móng công trình được phân loại thành móng nông và móng sâu dựa vào độ sâu chôn vào đất.
Móng nông được xây trên hố móng đào trần, sau đó lấp lại. Thông thường, độ sâu chôn móng khoảng dưới 1,5-3m nhưng cũng có trường hợp đặc biệt lên tới 5-6m. Móng nông được sử dụng cho các công trình chịu tải nhỏ và trung bình với nền đất tương đối tốt, nếu nền móng yếu thì có thể gia cố nền. Với móng nông, người ta lại phân ra như sau:
Móng đơn
Móng đơn (móng cột, đế cột, móng trụ, móng độc lập) là loại móng đỡ một cột hoặc gồm một cụm cột đứng sát nhau, có tác dụng chịu lực cho công trình. Móng đơn được sử dụng dưới chân cột nhà, mố trụ cầu, cột điện… Loại móng này nằm riêng lẻ, có thể là hình chữ nhật, hình vuông, tròn hay tám cạnh… Móng đơn có thể là móng cứng, móng mềm hoặc móng kết hợp. Đây cũng là loại móng tiết kiệm chi phí nhất.
Móng băng
Móng băng (móng liên tục) thường có dạng một dải dài, nằm độc lập hoặc giao cắt với nhau theo hình chữ thập để nâng đỡ hàng cột hay tường. Để thi công móng đơn, người ta phải đào móng quanh khuôn viên công trình hoặc đào móng song song với nhau trong khuôn viên đó. Móng băng được ứng dụng phổ biến trong xây dựng nhà hơn cả vì nó lún đều và dễ thi công hơn so với móng đơn. Móng băng thuộc loại móng nông. Móng băng ở hồi nhà phải dùng loại tốt hơn móng băng ở tường ngăn hay dọc nhà. Tuy nhiên, khi thi công, người ta thường đặt móng băng cùng chiều sâu, vì thế phải làm móng băng ở hồi rộng hơn. Trong xây dựng nhà, móng băng có thể là móng cứng, móng mềm hoặc móng kết hợp.
Móng bè
Móng bè (móng bản, móng toàn diện) trải rộng dưới toàn bộ công trình nhằm làm giảm áp lực của công trình trên nền đất. Đây vốn là loại móng nông, thường sử dụng ở nơi có nền đất yếu, sức kháng nén yếu hoặc dùng cho những công trình quá lớn, chịu tải trọng nặng.
Móng sâu là loại móng không cần đào hố móng hoặc chỉ cần đào một phần, sau đó hạ, đưa móng xuống độ sâu thiết kế. Móng sâu phù hợp với những công trình có tải trọng lớn nhưng nền đất tốt nằm ở tầng sâu. Móng sâu thường được hiểu là móng cọc.
Móng cọc
Là loại móng gồm có cọc và đài cọc, dùng để truyền tải trọng của toàn bộ công trình xuống nền đất tốt bên nằm sâu bên dưới. Khi thi công, người ta sẽ đóng, hạ những cây cọc xuống tầng đất sâu để làm tăng khả năng chịu tải cho móng. Trước kia, ở Việt Nam, cọc tre và cọc cừ tràm được sử dụng khá phổ biến như một biện pháp gia cố nền đất dưới công trình. Ngày nay, cọc bê tông cốt thép trở nên phổ biến hơn nhờ chịu được tải trọng lớn và bền vững.