Trên sổ đỏ, tôi đứng tên chính, bạn đứng tên phụ. Số tiền tôi bỏ ra nhiều gấp gần 3 lần tiền của bạn. Việc tìm đất cũng như mọi giao dịch đều do tôi thực hiện.
Hiện, mối quan hệ của chúng tôi không mấy tốt đẹp do tôi phát hiện cô ấy nói xấu mình và có những hành động không đàng hoàng. Mảnh đất mua chung thì đang lên giá nên chúng tôi cũng không muốn bán ngay.
Tôi muốn hỏi, sau này việc phân chia sẽ như thế nào? Liệu tôi có được hưởng tương ứng gấp 3 lần bạn tôi không?
Ngọc Linh
Luật sư trả lời
Theo quy định tại điều 98 (khoản 2) Luật Đất đai 2013, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là sổ đỏ) phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sử dụng đất, người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và cấp cho mỗi người một giấy. Trường hợp các chủ sử dụng, chủ sở hữu có yêu cầu thì cấp chung và trao cho người đại diện.
Như vậy, với quy định trên thì các chủ thể trên sổ đỏ là bình đẳng, pháp luật không quy định, cũng không phân biệt người đứng tên chính, người đứng tên phụ.
Theo điều 210 Bộ luật Dân sự, quyền sử dụng đất trong trường hợp này là sở hữu chung hợp nhất. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Điều này có nghĩa quyền của mỗi bên đối với tài sản là 50/50 mà không phân biệt ai sở hữu nhiều hơn, ai sở hữu ít hơn. Việc quản lý, sử dụng, định đoạt thửa đất phải được sự đồng ý của các đồng sở hữu (đồng sử dụng) thửa đất.
Do vậy, để có căn cứ xác định tỷ lệ góp vốn thì các đồng sở hữu cần lập Biên bản thỏa thuận về tỷ lệ góp vốn (có công chứng hoặc chứng thực) hoặc lập Vi bằng do Văn phòng Thừa phát lại thực hiện. Các văn bản này có thể lập trước hoặc sau khi các đồng sở hữu đã được cấp sổ đỏ. Đây là cơ sở pháp lý để xác định tỷ lệ góp vốn, tỷ lệ phân chia lợi nhuận (có thể không trùng tỷ lệ góp vốn), điều kiện khi chuyển nhượng tài sản cho người khác... Biên bản thỏa thuận hoặc Vi bằng được xác định là nguồn chứng cứ để giải quyết nếu có tranh chấp trong việc phân định tỷ lệ sở hữu cũng như các quyền và nghĩa vụ khác của các đồng sở hữu.
Trường hợp các bên không lập một trong các văn bản nói trên hoặc văn bản được lập không hợp pháp (bị vô hiệu) hoặc các bên không có chứng cứ khác về tỷ lệ góp vốn thì pháp luật mặc nhiên xác định tỷ lệ góp vốn của các bên là bằng nhau, các bên có quyền ngang nhau trong việc định đoạt tài sản chung.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty luật Bảo An, Hà Nội