Việc này nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ, tránh các khiếu nại, khiếu kiện khi giải quyết các tranh chấp về đất đai, từng bước tạo điều kiện để người phụ nữ được chủ động tham gia các hoạt động về kinh tế, góp phần xóa đói, giảm nghèo.
Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đề nghị các địa phương cần khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp mới hoặc cấp đổi giấy chứng nhận đã chứng nhận về quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi "họ, tên của vợ hoặc chồng," để ghi "cả họ, tên vợ và họ, tên chồng" khi người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất có nhu cầu theo quy định của pháp luật về đất đai.
Quy định này dấy nên những vấn đề lo ngại về sự phiền phức trên thực tế khi đi công chứng tài sản.
Một số ý kiến cho rằng, vẫn nên giữ quy định cũ, nếu là tài sản chung thì đi mua đất đai/tài sản BĐS chỉ cần vợ hoặc chồng trên hợp đồng bán và sổ hồng; còn khi đi bán thì mới cần cả hai vợ chồng như trước đến nay vẫn thực hiện để giảm bớt thời gian, thủ tục và con người. Bởi trên thực tế, nếu bắt buộc đứng tên cả hai vợ chồng trên sổ đỏ, ngoài tốn thêm nhân lực, nguồn lực còn gây rắc rối khi thực hiện các thủ tục hành chính.
Theo Luật sư Trần Minh Cường – Đoàn Luật sư Tp.HCM thì đây là quy định không mới đã có từ lâu được ghi nhận cụ thể tại Luật Đất Đai cũng như Luật Hôn Nhân Gia đình.
Cụ thể, theo khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình, tài sản chung của vợ, chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ, chồng. Do đó, nếu vợ, chồng bán nhà, đất mà Sổ đỏ đứng tên cả hai vợ, chồng thì khi thực hiện thủ tục phải có sự đồng ý của cả hai người.
Tuy nhiên, theo LS Minh Cường, do Luật quy định mở nên không có tính bắt buộc thực hiện khi người dân thực hiện thủ tục có thể do để thuận tiện, đơn giản hơn khi tiến hành mua bán bất động sản. Cụ thể Điều 98 Luật Đất đai 2013 quy định "Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người.
Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có yêu cầu"
Trên thực tế, cơ quan nhà nước mặc nhiên hiểu rằng khi bên bán đứng tên một mình trên Hợp đồng mua bán (trường hợp đã kết hôn) thì cơ quan nhà nước giải quyết như trường hợp đã có thỏa thuận ghi tên một người mà không yêu cầu các bên cung cấp một thỏa thuận riêng biệt.
Theo LS Cường, chúng ta thấy rằng quy định mở như vậy để tạo thuận tiện cho người dân khi tham gia giao dịch khi không cần phải cả vợ và chồng cùng ra ký hợp đồng lúc mua và bán (tổng cộng mất 2 lần) góp phần đơn giản hồ sơ giấy tờ lúc mua (vì lúc bán tổ chức hành nghề công chứng chịu trách nhiệm xác định tài sản chung hay tài sản riêng để xác định chủ thể chuyển nhượng).
"Trên thực tế quy định này hỗ trợ thuận tiện cho người dân khi giao dịch, tuy nhiên quá trình hành nghề cũng như thực tiễn tố tụng phát sinh rất nhiều tranh chấp liên quan đến việc xác định tài sản chung hay riêng, thậm chí trong các vụ việc lừa đảo/lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản do Giấy chứng nhận chỉ đứng tên một người. Đồng thời để thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ vợ chồng cũng như vị thế của người phụ nữ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thì tôi ủng hộ quan điểm này", LS Trần Minh Cường nhấn mạnh.
Theo vị Luật sư này, sẽ có nhiều ý kiến cho rằng không cần thiết phải để tên 2 vợ chồng trên sổ đỏ, gây bất tiện, tuy nhiên quan điểm của tôi là ủng hộ quy định này vì so với việc tốn thời gian công sức (chỉ 2 lần đi lại đến tổ chức công chứng) và với việc giải quyết thủ tục hành chính đơn giản và tương đối tinh gọn như hiện nay thì việc để cả vợ và chồng cùng đứng tên trên giấy chứng nhận để đảm bảo quyền lợi, hạn chế các tranh chấp phát sinh cũng như để nâng tầng, bình đẳng cho người phụ nữ Việt Nam là điều phù hợp.
Theo khoản 4 điều 98 luật Đất đai 2013, quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng mà sổ hồng đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang sổ hồng ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có yêu cầu.
Nếu có nhu cầu cấp đổi để ghi cả tên vợ và chồng sẽ thực hiện theo các bước sau:
1. Người sử dụng đất nộp một bộ hồ sơ đề nghị cấp đổi giấy chứng nhận cho Văn phòng đăng ký đất đai bao gồm: đơn đề nghị cấp đổi giấy chứng nhận theo Mẫu số 10/ĐK; bản gốc giấy chứng nhận đã cấp.
2. Văn phòng Đăng ký đất đai có trách nhiệm, kiểm tra hồ sơ, xác nhận vào đơn đề nghị và trình cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyết định; cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; trao giấy chứng nhận cho người được cấp hoặc gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để trao đối với trường hợp nộp hồ sơ tại cấp xã.