1. Vợ chồng đứng tên chung
Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế/ tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Như vâỵ, bất động sản mua trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung của vợ và chồng, cả 2 người đều có những quyền lợi tương đương đối với việc sở hữu, sử dụng và định đoạt đối với nhà đất đó.
Theo Điều 98 Luật Đất đai 2013, trường hợp quyền sử dụng nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng (sổ đỏ), trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Trên thực tế, đa phần các cặp vợ chồng chọn hình thức cùng đứng tên trên sổ đỏ nhằm đảm bảo đó là tài sản chung, tránh trường hợp xảy ra tranh chấp nếu ly hôn cần phân chia tài sản.
Trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới chỉ có vợ hoặc chồng đứng tên, người còn lại muốn bổ sung tên mình vào sổ đỏ thì phải thực hiện thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất, xin cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở. Trình tự, thủ tục thêm tên vào sổ đỏ được quy định cụ thể tại Điều 76, Nghị định 43/2014/NĐ-CP.
2. Chỉ vợ hoặc chồng (1 người) đứng tên
Đây là trường hợp có thể xảy ra khi vợ và chồng có thỏa thuận riêng về việc đứng tên trên sổ đỏ. Hoặc đơn giản là do lúc trao đổi mua bán, chỉ vợ hoặc chồng đứng ra giao dịch nên khi sang tên sổ đỏ cũng chỉ ghi tên họ của một người.