Khu vực bán đảo Quảng An luôn được Hà Nội chú trọng
- Thưa ông, từ năm 1992 và sau này là Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội 1998, Hồ Tây được định hướng trở thành trung tâm mới của thành phố. Mới đây, Đồ án quy hoạch trục không gian trung tâm bán đảo Quảng An 1/500 tiếp tục khẳng định mục tiêu xây dựng khu vực Hồ Tây trở thành trung tâm văn hóa nghệ thuật mới của thủ đô với hệ thống nhiều công trình... Xin ông cho biết, những giá trị ưu việt mà quy hoạch này mang lại cho thủ đô là gì?
Hà Nội không chỉ là trung tâm hành chính, chính trị quốc gia mà còn là trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học – kỹ thuật và trung tâm kinh tế, giao lưu quốc tế.
Từ sau năm 1954 đến nay, Hà Nội đã có 7 lần quy hoạch chung và 4 lần điều chỉnh địa giới. Sau khi điều chỉnh lại địa giới giữa Hà Nội và Hà Tây thì quy hoạch chung của toàn thủ đô Hà Nội năm 1992 đã xác định Hà Nội có các khu vực đặc thù, các khu vực trung tâm văn hóa của thành phố. Trong quyết định đã nói rất rõ, ngoài khu vực Ba Đình, hồ Hoàn Kiếm còn có khu vực Hồ Tây. Từ định hướng quy hoạch năm 1992 đã xác định phát huy giá trị của các khu vực này đồng thời đưa ra một yêu cầu rất chặt chẽ đó là bảo tồn cảnh quan thiên nhiên của khu vực, không để xâm phạm hoặc làm sai phạm đến cảnh quan đó.
Ngay sau quy hoạch chung năm 1992, Hà Nội rất quan tâm đến các khu trung tâm. Hà Nội đã có quy hoạch khu phố cổ, quy hoạch khu vực Hồ Gươm và năm 1994 có quy hoạch khu vực Hồ Tây và bán đảo Quảng An. Trong quy hoạch này, khu vực Hồ Tây và bán đảo Quảng An đã xác định được rõ chức năng, có các trung tâm văn hóa công cộng và đặc biệt đưa ra yêu cầu phục vụ cho du lịch, khai thác cảnh quan, đây là một điểm nhấn mới của thủ đô Hà Nội.
Có thể thấy, ngay từ năm 1994 chúng ta đã rất chú trọng khu vực bán đảo Quảng An và khu vực ven phía tây Hồ Tây, và từng bước chúng ta đã hình thành được 2 trục không gian. Một là trục không gian ở phía tây Hồ Tây và điểm xuất phát từ vành đai 3 (Công viên Hòa Bình) và một trục ở bán đảo Quảng An – sau năm 1995 được đặt tên là đường Đặng Thai Mai.
Đến năm 1998, chúng ta lại có Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội và tiếp tục nhấn mạnh thêm nữa về vai trò của khu vực bán đảo Hồ Tây. Trong quy hoạch lần này, xác định rõ rằng có trục không gian nối từ phía tây Hồ Tây (tức từ Công viên Hòa Bình – đó là trung tâm thương mại, dịch vụ công cộng, thậm chí có cả các cơ quan trung ương) giao cắt với trục Cổ Loa, Đặng Thai Mai, bán đảo Quảng An để tạo thành một trục không gian Thăng Long - Hà Nội truyền thống nhưng hiện đại.
Quy hoạch năm 1998 cũng đã tạo ra một điểm nhấn của giao điểm này là khu vực Đầm Trị - khu vực gắn kết với các di tích lịch sử xung quanh. Có thể nói, sau quy hoạch năm 1998, khu vực bán đảo Quảng An và phía tây Hồ Tây đã nở rộ lên những công trình kiến trúc mà đến nay còn thể hiện là dấu ấn của kiến trúc Hà Nội, của Việt Nam như khách sạn Sheraton, Khách sạn Thắng Lợi… Chúng ta đã chỉnh trang, cải tạo công trình này và không chấp nhận việc cải tạo làm phá vỡ những di tích, bảo tồn rất chặt chẽ đường ven hồ.
Như vậy, đến quy hoạch năm 1998, chúng ta đã khẳng định lại được giá trị của khu vực bán đảo Quảng An trong định hướng chung. Đến năm 2008, sau khi mở rộng địa giới, chúng ta có 3 năm nghiên cứu với sự tham gia của các tổ chức tư vấn trong nước và nước ngoài, thẩm định, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch Hà Nội mới đến năm 2030 tầm nhìn năm 2050 là Quyết định 1259 (hay còn gọi quy hoạch năm 2011). Trong quy hoạch năm 2011 đã xác định được rất nhiều vấn đề như xác định trung tâm dịch vụ, văn hóa, thương mại nằm ở phía tây Hồ Tây và đặc biệt khu vực bán đảo Hồ Tây.
Lúc này chúng ta đặt ra những chức năng như bảo tàng, nhà hát cấp quốc gia. Có thể nói sau quy hoạch năm 2011, vấn đề chức năng văn hóa được nhấn mạnh hơn nữa và đây là thời kỳ chúng ta rất chú trọng đến tìm vị trí để xây dựng những nhà hát cấp quốc gia.
Quy hoạch năm 2011 lần này đã xác định rõ khu vực bán đảo Hồ Tây sẽ có một nhà hát hoặc một bảo tàng thích hợp. Tiếp tục thực hiện quan điểm này, chúng ta có quy hoạch phân khu hay còn gọi là quy hoạch phân khu A6 Hồ Tây, bán đảo Hồ Tây. Đây là quy hoạch tương đồng với quy hoạch năm 1994 (tức sau gần hơn 20 năm). Trong quy hoạch phân khu A6 khẳng định rõ vị trí giao điểm giữa trục tây Hồ Tây và trục Cổ Loa là một nhà hát đa năng, xác định rõ vị trí các công trình phải bảo tồn, tôn tạo và đặc biệt có thể thể hiện lại các ý tưởng, các cảnh quan xung quanh.
Như vậy để có được quy hoạch phân khu A6, chúng ta đã trải qua một thời gian rất dài. Gần 30 năm, chúng ta đã đặt ra vấn đề làm trung tâm văn hóa nhưng làm cái gì thì đến quy hoạch A6 mới xác định đó là một nhà hát đa năng.
Lần này chúng ta mạnh dạn đặt ra một công trình mới, có thể nói đây là kế thừa định hướng rất chuẩn xác và đúng hướng từ quy hoạch năm 1992. Thứ hai, đã rút kinh nghiệm các bài học để bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, đặc biệt là mặt nước ở đây. Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi về hạ tầng - kỹ thuật để thu hút cộng đồng dân cư, bạn bè nước ngoài vào trung tâm mới, nhằm giảm áp lực cho nội đô lịch sử của thành phố Hà Nội.
Qua tất cả những điều trên, dù có trái chiều nhau đi chăng nữa, phải khẳng định rằng một nhà hát đa năng ở vị trí Đầm Trị là hợp lý. Vị trí này phải được thiết kế xứng tầm là công trình văn hóa thủ đô nhưng vẫn phải tôn trọng cảnh quan thiên nhiên, tôn trọng các di tích lịch sử, đặc biệt kế thừa các công trình kiến trúc đã để lại dấu ấn của Hà Nội suốt từ quy hoạch bán đảo Hồ Tây từ năm 1994 đến nay.
Phát triển Hà Nội không chỉ bó hẹp trong khu vực nội đô
- Qua trao đổi vừa rồi có thể thấy, xây dựng khu vực Hồ Tây thành trung tâm văn hóa của Hà Nội đã nằm trong quy hoạch từ rất lâu rồi nhưng đến nay vẫn chưa hiện thực hóa được. Theo ông, vấn đề khó khăn nhất mà quy hoạch này gặp phải là gì, và cần giải pháp gì để hiện thức hóa quy hoạch này?
Có thể nói, về mặt định hướng, khu vực Hồ Tây đã được xác định quy hoạch từ năm 1992, nhưng cụ thể từng lô đất, từng khu vực được bố trí những công trình gì thì còn có sự khác nhau. Nhưng riêng bán đảo Quảng An đã có rất nhiều quy hoạch, ví dụ như quy hoạch phía tây Hồ Tây năm 1994, sau đó đến quy hoạch quận Tây Hồ, gần đây quy hoạch phân khu A6 cũng đã xác định rõ chức năng. Như vậy, có một vấn đề được đặt ra là làm thế nào để gắn kết các quy hoạch khu vực Hồ Tây này với tổng thể phát triển của thành phố Hà Nội. Đây là bài học từ khu vực phố cổ, khu vực Hoàn Kiếm như chúng ta đã thấy. Khu vực Hoàn Kiếm từ năm 1995 đã đặt ra phố đi bộ nhưng mãi tận hơn 15 năm sau chúng ta mới tổ chức được tuyến phố đi bộ.
Khó khăn lớn nhất hiện nay là phải tuyên truyền để nhân dân thấy rõ rằng phát triển của Hà Nội không chỉ bó hẹp trong khu vực nội đô lịch sử, ở những khu vực chúng ta thường quan tâm như Hồ Hoàn Kiếm, Ba Đình hay phố cổ mà phải phát triển xa hơn, nhưng Hồ Tây cũng là khu vực có tiềm năng rất lớn về văn hóa.
Đi ngược lại lịch sử, từ thời phong kiến, rất nhiều doanh nhân, nhà văn hóa đã quan tâm đến khu vực Hồ Tây như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Trãi... Hơn nữa, khu vực Hồ Tây và bán đảo Quảng An cũng có nhiều di tích tầm cỡ quốc gia. Tại đây, có tới 30 di tích quốc gia đã xếp hạng và còn gần 25 di tích chưa xếp hạng nhưng rất có giá trị.
Một điều đặc biệt nữa, đây là khu vực mang đậm dấu ấn văn hóa Thăng Long Hà Nội, đặc biệt là làng nghề, cả làng nghề thủ công, làng nghề ẩm thực... Một vấn đề nữa, cảnh quan ở bán đảo Hồ Tây và Hồ Tây được những người làm công tác quy hoạch, kiến trúc từ những năm 2012 trở đi đã nghiên cứu kỹ hơn. Đặc biệt có hội thảo quốc tế, rất nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế đã đề xuất rằng nhà nước công nhận khu vực Hồ Tây là danh lam thắng cảnh quốc gia, là di tích đặc biệt, tuy nhiên đến nay chưa triển khai được. Tôi cho rằng vấn đề mấu chốt nhất để tránh những ý kiến trái chiều với nhau là phải tiếp cận được tổng thể, thấy được mục tiêu phát huy, khai thác giá trị văn hóa rất phong phú, rất đa năng của khu vực này. Đặc biệt, tạo động lực mới để tiếp tục phát huy những định hướng mà chúng ta đã đặt ra từ gần 30 năm nay. Đây là một tiềm lực rất lớn để chúng ta phát triển Hà Nội hướng tới năm 2030 trở thành thành phố xanh, văn minh, văn hiến, hiện đại.
- Nhìn vào đồ án, ta thấy quy hoạch trục không gian trung tâm bán đảo Quảng An 1/500 đang trả lại khoảng xanh vốn có cho các quần thể tâm linh như chùa Hoằng Ân, chùa Phổ Linh, đồng thời bổ sung thêm không gian xanh và quảng trường rộng lớn để người dân và du khách có một điểm sinh hoạt văn hóa xứng tầm với vị thế của thủ đô một đất nước 100 triệu dân. Theo ông, đây có phải là một giá trị đặc biệt tích cực mà dự án sẽ đem đến cho Hà Nội, trong bối cảnh bộ mặt đô thị ở khu vực này vẫn còn nhếch nhác, cần sự điều chỉnh kịp thời?
Trong điều chỉnh quy hoạch lần này đã rất chú trọng đến yếu tố cảnh quan của khu vực trục trung tâm bán đảo Quảng An. Ở đây cũng đã kế thừa, phát huy những giá trị đã có, nhưng vấn đề chúng ta có lẽ phải tìm hiểu kỹ hơn là về mối quan hệ giao thông, về liên kết giữa khu vực này với xung quanh như thế nào?
Ví dụ Hồ Tây có giá trị như thế chắc chắn không lâu chúng ta sẽ khai thác, tổ chức các hoạt động du lịch, dịch vụ trên mặt nước và điều này đã được đặt ra từ rất lâu. Vậy việc kết nối giữa giao thông thủy với các dịch vụ mặt nước Hồ Tây như thế nào phải làm cho rõ hơn. Đặc biệt là giao thông đường bộ, kết nối không chỉ qua tuyến đường Đặng Thai Mai, mà còn qua các tuyến đường đê Lạc Long Quân, Âu Cơ như thế nào và gắn kết với các tuyến đường vành đai ở ven Sông Hồng mà chúng ta đang quyết tâm triển khai như thế nào?
Tôi cũng cho rằng chúng ta nên dành thời gian để nghiên cứu kỹ hơn về cảnh quan, cây xanh, mặt nước… đã tôn trọng nguyên tắc phát huy giá trị của bán đảo Quảng An chưa, hình dáng như thế nào, liên kết với mặt hồ ra sao? Đặc biệt không gian của công trình như thế nào để gắn với xung quanh thì chúng ta phải nghiên cứu kỹ.
Chưa bao giờ chúng ta thấy được tiềm năng mạnh mẽ của công nghiệp văn hóa, không gian văn hóa như hiện nay
- Ông có nhận định thế nào về vai trò của những công trình văn hóa tầm cỡ đối với sự phát triển văn hóa xã hội và kinh tế của một thành phố thủ đô, và cao hơn nữa là đối với một quốc gia?
Đối với Hà Nội đã có nhiều sự đột phá nhưng có lẽ chưa bao giờ chúng ta quan tâm, thấy được tiềm năng mạnh mẽ của công nghiệp văn hóa, không gian văn hóa như hiện nay. Có thể nói đây là một vấn đề rất mới không chỉ Trung ương quan tâm đến mà chính người dân Tây Hồ cũng đã nhận thấy. Những bài học kinh nghiệm ví dụ như khai thác khu vực Nhà hát Lớn, khai thác khu vực Hoàng thành Thăng Long, thành công từ trung tâm hội nghị quốc tế hay các bảo tàng đã cho chúng ta thấy văn hóa có tiềm năng và sức mạnh rất lớn. Đặc biệt không chỉ những di sản vật thể mà kể cả phi vật thể cũng được quan tâm.
Chắn chắn sắp tới Hà Nội sẽ đạt được nhiều thành tích hơn nữa khi chúng ta có định hướng đối với các hoạt động kinh tế đô thị, kinh tế đêm… Đây là vấn đề tôi cho rằng phải quan tâm hơn nữa. Rõ ràng càng ngày công nghiệp văn hóa, sáng tạo càng trở thành một động lực và là một điểm mạnh của Hà Nội cũng như của các đô thị lịch sử ở Việt Nam. Có lẽ chúng ta phải nắm bắt được, để từ đó có những giải pháp thích hợp.
- Hà Nội là thủ đô của Việt Nam – đất nước 100 triệu dân, được UNESCO vinh danh là "thành phố sáng tạo". Song có phải dường như thành phố vẫn còn thiếu những công trình thực sự sáng tạo để nâng tầm diện mạo thủ đô, xây dựng hình ảnh Việt Nam vang danh thế giới. Ông nghĩ sao về nhận định này?
Để tham gia thành phố sáng tạo và đánh giá sáng tạo thì không chỉ có kiến trúc mà còn ẩm thực, văn hóa, biểu diễn... Nhưng đối với Hà Nội, phải thừa nhận rằng sáng tạo công trình kiến trúc là bước đi đầu tiên và Hà Nội đã có truyền thống đó.
Nhìn lại lịch sử kiến trúc Hà Nội, chúng ta thấy quy hoạch thành phố Hà Nội là đan xen hài hòa giữa quy hoạch của thời phong kiến (ví dụ như các khu kinh thành, hoàng thành) với thời Pháp thuộc ở các quy hoạch khu phố cũ cộng với quy hoạch phát triển mới.
Riêng về công trình kiến trúc, Hà Nội cũng tập hợp nhiều loại hình. Chúng ta có kiến trúc dân gian Việt Nam truyền thống trong khu phố cổ. Chúng ta tiếp cận sáng tạo kiến trúc Trung Hoa. Chúng ta cũng tiếp cận kỹ thuật mới tạo ra kiến trúc Pháp trong cả khu phố cổ tạo kiến trúc Đông Dương…
Cho nên, đừng vội cho rằng tại sao Hà Nội không có không gian sáng tạo? Chúng ta có nhiều không gian tiền đề cho không gian sáng tạo nhưng vấn đề đặt ra là sáng tạo theo phương hướng nào? Theo kiểu gì và ai là người sáng tạo? Chúng ta cần có thời gian để trả lời.
- Việc xây dựng các công trình, nhất là những công trình tầm cỡ mang tầm biểu tượng không phải một sớm một chiều, thời gian từ khi phê duyệt tới khi hoàn thành cũng có thể mất tới cả chục năm, như nhà hát Opera Sydney là khoảng 20 năm, Nhà hát Bắc Kinh 7 năm. Vậy những quy hoạch ở thời điểm hiện tại cũng cần lưu ý điều gì để phù hợp với sự phát triển của tương lai, khi chúng ta đang đẩy mạnh hội nhập với thế giới, thưa ông?
Để thực hiện được yêu cầu này, bên cạnh sự sáng tạo, bên cạnh việc bám sát những điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa của từng vùng miền, từng đặc khu thì bài học kinh nghiệm nước ngoài là cái cần học hỏi. Nhưng ở đây phải là tiếp thu có chọn lọc thì chúng ta mới ra vấn đề ở Việt Nam.
Có lẽ không phải tự nhiên mà trong định hướng phát triển quy hoạch và cũng trong định hướng phát triển thủ đô đặt ra vấn đề Hà Nội sẽ phát triển theo hướng xanh. Xanh là vấn đề môi trường, nhưng bên cạnh đó còn đặt vấn đề văn hiến, kế thừa chọn lọc truyền thống. Và yêu cầu nữa đặt ra là văn minh, tức là tiếp cận, hội nhập có chọn lọc để Hà Nội trở thành thành phố hiện đại, phát triển bền vững. Như vậy, tôi cho rằng tất cả phải tổng hòa lại với nhau để có được giải pháp thích hợp thì chúng ta mới có thể thành công, để lại cho thế hệ sau những di sản như hiện nay chúng ta đang thụ hưởng.
- Trân trọng cảm ơn ông ông đã dành thời gian trao đổi!