GS. Đặng Hùng Võ: Khái niệm “giá đất thị trường” không rõ ràng khiến các “bi kịch” ngày càng nhiều

Theo GS.TSKH Đặng Hùng Võ, Luật Đất đai 2013 quy định nguyên tắc “giá đất do Nhà nước quy định phải phù hợp với giá đất thị trường” song không nêu rõ định nghĩa khái niệm “giá đất thị trường”. Điều này dẫn đến, gần 10 năm qua, các “bi kịch” về giá đất sinh ra ngày càng nhiều.

Theo GS.TSKH Đặng Hùng Võ, Luật Đất đai 2013 quy định nguyên tắc “giá đất do Nhà nước quy định phải phù hợp với giá đất thị trường” song không nêu rõ định nghĩa khái niệm “giá đất thị trường”. Điều này dẫn đến, gần 10 năm qua, các “bi kịch” về giá đất sinh ra ngày càng nhiều.

Phát biểu tại phiên 1 thảo luận về đẩy mạnh cải cách thể chế, hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế - xã hội 2022 (ngày 18/9), GS.TSKH Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh vấn đề hoàn thiện chính sách về giá đất như một trọng tâm cần giải quyết khi bàn về sửa Luật Đất đai.

Không lặp lại tình trạng "phớt lờ" chính sách thuế bất động sản

Ông Võ nhận định, trong 10 năm qua, Luật Đất đai 2013 không quy định về khái niệm “giá đất thị trường”.

Theo ông, những năm qua các cấp có thẩm quyền ban hành khung giá đất và bảng giá đất thấp hơn thị trường chỉ nhận xét chung chung, không chứng minh được ai “có lỗi”, không có khái niệm pháp luật rõ ràng về “giá đất thị trường”.

Ông Võ cho biết, tại Nghị quyết 26-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai và Luật Đất đai 2003, lần đầu tiên pháp luật đặt ra quy định “giá đất do Nhà nước quy định phải phù hợp giá đất trên thị trường”. Luật Đất đai 2013 vẫn tiếp tục đề cập nguyên tắc “giá đất do Nhà nước quy định phải phù hợp với giá đất thị trường” nhưng bỏ qua định nghĩa khái niệm “giá đất thị trường”. Do đó, gần 10 năm qua, các “bi kịch” về giá đất sinh ra ngày càng nhiều.

Bên cạnh giá đất, tham luận tại diễn đàn, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng nêu một số bất cập liên quan đến vấn đề cải cách hệ thống thuế sử dụng đất hay thuế bất động sản.

Ông Võ cho rằng, thuế bất động sản thấp là nguyên nhân chính dẫn tới tệ nạn đầu cơ nhà đất, tích trữ tiền tiết kiệm vào nhà đất. Từ đó, các cơn sốt giá bất động sản hình thành, tích tụ bong bóng, tạo giá ảo làm giá nhà đất ngày càng cao.

Thực trạng trên theo ông dẫn đến 4 hệ luỵ chính gồm: giá đất cao dẫn tới giá hàng hóa sản xuất cao, làm giảm năng lực cạnh tranh quốc gia, không thu hút được đầu tư; lạm phát cao khi giá trị ảo của bất động sản tăng mạnh; không thể giải quyết được nhà ở giá phù hợp cho dân; không thể tự điều chỉnh phân bổ dân cư làm cho các đô thị vượt ngưỡng hạ tầng.

Từ 4 hệ luỵ này ông Võ nhấn mạnh, việc xây dựng và ban hành luật thuế bất động sản phù hợp là tất yếu. Cùng với đó, các luật thuế có liên quan đến đất đai phải ban hành đồng thời với Luật Đất đai sửa đổi.

Ông Võ cho biết, Nghị quyết 18-NQ/TW vừa ban hành đã đưa ra những đổi mới về công cụ thuế bất động sản với các nội dung chủ yếu như rà soát và xây dựng chính sách, pháp luật về thuế sử dụng đất theo thông lệ quốc tế, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và tạo lộ trình hợp lý; đánh thuế cao vào người có nhiều đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm đưa đất vào sử dụng, bỏ đất hoang...

"Như vậy chính sách thuế bất động sản đã rõ hơn trước đó, có thuế cao đối với những nhóm này, nhưng thuế lại thấp đối với những nhóm khác", ông Đặng Hùng Võ nhận xét.

Theo ông, vấn đề còn lại là thống nhất ý chí trong bộ máy Nhà nước để thực hiện nghị quyết này, không lặp lại tình trạng 10 năm qua "phớt lờ" chính sách thuế bất động sản đã đặt ra.

Sử dụng cơ chế thị trường trong lựa chọn các chủ đầu tư

Cùng nêu quan điểm về vấn đề này, GS.TS Hoàng Văn Cường, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng cơ chế giá đất cho phát triển bất động sản phải xác định phù hợp với giá trị thị trường của đất đai và sử dụng cơ chế thị trường trong lựa chọn các nhà đầu tư dự án phát triển bất động sản.

GS. Đặng Hùng Võ: Khái niệm “giá đất thị trường” không rõ ràng khiến các “bi kịch” ngày càng nhiều - Ảnh 1.

GS.TS Hoàng Văn Cường, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Ảnh: Quốc hội

Bên cạnh đó, ông Cường nhấn mạnh, Nhà nước phải trực tiếp thực hiện thu hồi và đền bù giải phóng mặt bằng theo cơ chế thống nhất đối với mọi dự án đầu tư phát triển bất động sản có quyết định phê duyệt đầu tư của Nhà nước.

Theo đó, người dân có đất thu hồi được hưởng chính sách bồi thường và tái định cư thống nhất, đảm bảo tái lập cuộc sống tốt hơn sau tái định cư; doanh nghiệp có đất sách để thực triển khai đầu tư thực hiện dự án mà không gặp phải những vướng mắc như cơ chế tự thoả thuận; Nhà nước sẽ thu hồi được giá trị địa tô chênh lệch từ chuyển đổi mục đích sử dụng đất khi giao đất cho nhà đầu tư phát triển bất động sản.

Cùng với đó, ông Cường cho rằng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất dành cho phát triển các công trình và dự án bất động sản phải phù hợp với chiến lược phát triển thị trường bất động sản để đảm bảo các dự án bất động sản được triển khai theo đúng tiến độ và đáp ứng đúng các nhu cầu về bất động sản phù hợp với qui mô, mức độ phát triển kinh tế xã hội.

Đặc biệt là quy hoạch quỹ đất phát triển nhà ở thương mại giá thấp và nhà ở dành cho các đối tượng chính sách xã hội theo tỷ lệ tối thiểu bằng 20-30% quỹ đất quy hoạch cho phát triển nhà ở thương mại trong cùng một địa bàn. Áp dụng chính sách thuê đất trả tiền một lần cho cả chu kỳ bằng tuổi thọ nhà ở chung cư để khuyến khích thuê nhà ở và sở hữu nhà chung cư có thời hạn.

Ngoài ra, cần phát triển các kênh dẫn vốn cho thị trường bất động sản theo hướng bền vững như quỹ tín thác đầu tư bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp có bảo đảm. Kiểm soát dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực đầu tư phát triển công trình và sản phẩm bất động sản, hạn chế tín dụng vào đầu tư đất đai cũng như cho vay mua nhà với giá trị lớn và tỷ lệ vốn vay cao.

Ngoài ra, ông Cường đề xuất nên thay thế phương thức huy động vốn thông qua bán nhà ở hình thành trong tương lai của chủ đầu tư cũng như việc giao dịch mua bán bất động sản hình thành trong tương lai của các nhà đầu tư thứ cấp bằng phương thức huy động vốn thông qua trái phiếu công trình có chuyển đổi thành quyền mua sản phẩm sau khi công trình hoàn thành.