Có phải đền bù khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà?

Hợp đồng thuê nhà, đặc biệt là điều khoản về tiền đặt cọc cần được bên thuê và bên cho thuê thỏa thuận cụ thể để tránh xảy ra tranh chấp.

Đặt cọc là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác gọi chung là tài sản đặt cọc trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc. Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Đối với những trường hợp các bên có sự thỏa thuận thống nhất về việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà thì tiền đặt cọc được hoàn trả theo quy định. Các bên sẽ tự thỏa thuận về thời điểm hoàn trả tiền đặt cọc.

Tuy nhiên, trong trường hợp một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng thì bên đơn phương chấm dứt hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết trước ít nhất 30 ngày, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Khi nào được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà?

Đối với bên thuê

Theo quy định tại Điều 132 Luật Nhà ở 2014, bên thuê sẽ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở khi bên cho thuê nhà ở có một trong các hành vi:

- Không sửa chữa nhà ở khi có hư hỏng nặng.

- Tăng giá thuê nhà ở bất hợp lý hoặc tăng giá thuê mà không thông báo cho bên thuê nhà ở biết trước theo thỏa thuận.

- Khi quyền sử dụng nhà ở bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba.

tiền đặt cọc thuê nhà
Đối với những trường hợp các bên có sự thỏa thuận thống nhất về việc chấm dứt hợp đồng
thuê nhà thì tiền đặt cọc được bên cho thuê nhà hoàn trả lại bên thuê nhà

Đối với bên cho thuê

Bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê khi thuộc một trong các trường hợp sau:

- Bên cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, nhà ở xã hội cho thuê không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không đúng điều kiện theo quy định của Luật này.

- Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ 3 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng.

- Bên thuê sử dụng nhà ở không đúng mục đích như đã thoả thuận trong hợp đồng.

- Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê.

- Bên thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại nhà ở đang thuê mà không có sự đồng ý của bên cho thuê.

- Bên thuê làm mất trật tự, vệ sinh môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của những người xung quanh đã được bên cho thuê nhà ở hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc lập biên bản đến lần thứ ba mà vẫn không khắc phục.

- Thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 129 của Luật này.

Pháp luật không quy định mức giá đặt cọc cụ thể mà thường do các bên tự thỏa thuận, thông thường bằng tiền thuê nhà trong 1 tháng. Bên thuê và bên cho thuê cần thỏa thuận cụ thể về mức giá này và thời điểm giao tiền đặt cọc, lập biên bản giao nhận để tránh xảy ra tranh chấp sau này.

Phùng Dung (TH)